Kiểm toán môi trường là một trong các công cụ hiệu quả cao trong quản lý môi trường, điều này đã được quy định tại Điều 74 của Luật BVMT năm 2020. Tuy vậy, đây vẫn còn là vấn đề mới, hiện Viện Khoa học Môi trường, biển và hải đảo đang lấy ý kiến góp ý hướng dẫn kỹ thuật hoạt động tự kiểm toán môi trường của cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Kiểm soát môi trường ở một khu công nghiệp tại Bắc Ninh
Công cụ kiểm soát ô nhiễm hiệu quả
Ở nước ta, Luật Bảo vệ môi trường 2020 nêu: “Kiểm toán môi trường là việc xem xét, đánh giá có hệ thống, toàn diện hiệu quả quản lý môi trường, kiểm soát ô nhiễm của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ”. Theo đó, nội dung chính của kiểm toán môi trường đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ bao gồm: Việc sử dụng năng lượng, hóa chất, nguyên liệu, phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất; Kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải; Khuyến khích cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tự thực hiện kiểm toán môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan hướng dẫn kỹ thuật hoạt động tự kiểm toán môi trường (KTMT) của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Trong những năm gần đây, cùng với các công cụ quản lý môi trường truyền thống đã được áp dụng phổ biến, KTMT được ghi nhận như một công cụ hiệu quả phục vụ công tác quản lý môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và là một kênh cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước về môi trường phục vụ công tác kiểm tra, giám sát. Trong giai đoạn đầu, KTMT tập trung vào đánh giá sự tuân thủ của các cơ sở đối với các văn bản pháp luật, những quy định về môi trường trong các văn bản pháp luật. Sau này khi các vấn đề môi trường ngày càng mở rộng và phức tạp, KTMT cũng được phát triển và bao trùm nhiều dạng khác nhau như kiểm toán năng lượng, kiểm toán chất thải, kiểm toán nguyên vật liệu, kiểm toán vận chuyển, kiểm toán tác động giúp cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có thêm công cụ để thực hiện quản lý môi trường tại cơ sở.
Trong những năm qua, ở nước ta nội dung về KTMT đã được nghiên cứu tại một số viện nghiên cứu, trường đại học và triển khai áp dụng thí điểm tại một số cơ sở sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, việc triển khai này còn mang tính đơn lẻ, chưa đồng bộ, chưa thống nhất và còn nhiều khó khăn do thiếu các hướng dẫn cụ thể cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ còn có những hạn chế nhất định. Với mục tiêu đưa nội dung KTMT trở thành một công cụ phục vụ quản lý môi trường, tại Điều 74, Luật bảo vệ môi trường 2020 (BVMT) có quy định chi tiết một số nội dung về KTMT. Đây là lần đầu tiên nôi dung chi tiết về KTMT được ghi nhận trong Luật BVMT. Việc luật hóa này cũng thể hiện rằng KTMT đang được xem là xu thế và là định hướng trong hoạt động quản lý môi trường tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong thời gian tới tại Việt Nam.
Việc xây dựng và ban hành “Tài liệu hướng dẫn kỹ thuật hoạt động tự kiểm toán môi trường tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ” nhằm cung cấp thông tin tổng quan về quy trình thực hiện, nội dung và phương pháp để hướng dẫn các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có thể chủ động nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện KTMT, hướng tới mục tiêu áp dụng rộng rãi công cụ kiểm toán môi trường trong thời gian tới.
Trên thế giới hiện có 2 loại hình kiểm toán môi trường, gồm: Kiểm toán đánh giá tuân thủ và kiểm toán hệ thống quản lý.
Kiểm toán đánh giá tuân thủ thường được áp dụng ở Mỹ và nhiều quốc gia. Loại hình kiểm toán môi trường này là phổ biến nhất, nhằm xem xét, đánh giá tình hình tuân thủ luật pháp của công ty/tổ chức/dự án (gọi chung là “cơ sở”) trong quá trình vận hành.
Kiểm toán sự tuân thủ bắt đầu bằng việc xác định các yêu cầu cần tuân thủ trong quá trình hoạt động của cơ sở. Các yêu cầu này bao gồm: Luật, quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn mà cơ sở phải tuân thủ.
Kiểm toán sự tuân thủ có thể là kiểm toán đa phương diện hoặc kiểm toán theo chương trình, gồm: Kiểm toán đa phương diện bao gồm công tác xác định và kiểm toán tất cả các vấn đề môi trường (đất, nước, không khí, sinh thái....) liên quan đến hoạt động của cơ sở và kiểm toán theo chương trình (còn gọi là kiểm toán chuyên đề hoặc kiểm toán vấn đề chuyên biệt) là kiểm toán chỉ giới hạn đối với một hoặc một số vấn đề chọn lọc (thí dụ: kiểm toán chuyên đề về ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, an toàn môi trường…).
Kiểm toán cần tập trung chủ yếu đến các khía cạnh hoạt động của cơ sở tại khu vực hơn là đánh giá mức độ gây ô nhiễm hoặc tác động môi trường của cơ sở đối với khu vực. Do vậy, hoạt động quan trắc môi trường thường không thuộc KTMT mà là biện pháp hỗ trợ khi cần thiết.
Kiểm toán môi trường nhằm mục đích xác định ưu, nhược điểm của hệ thống quản lý môi trường của cơ sở; đánh giá mức độ tuân thủ của cơ sở đối với các quy định về môi trường của quốc gia/địa phương hoặc quốc tế và giảm thiểu tác động đối với con người, môi trường do các vấn đề ô nhiễm, sự cố môi trường, an toàn do cơ sở gây nên, cải thiện công tác quản lý môi trường của cơ sở.
Hiện nay đang có sự nhầm lẫn giữa kiểm toán môi trường với kiểm toán chất thải, đánh giá tác động môi trường, quan trắc môi trường và giám sát hậu thẩm đánh giá tác động môi trường.
Theo Viện Khoa học Môi trường, biển và hải đảo, kiểm toán chất thải (KTCT) là sự xác định nguồn, mức độ phát sinh chất thải qua xác định nguyên liệu, năng lượng, quy trình sản xuất, cân bằng vật chất, cân bằng năng lượng, từ đó xác định biện pháp giảm thiểu phát sinh chất thải và quản lý môi trường. KTCT là 1 trong các biện pháp kiểm soát ô nhiễm trước đường ống. KTCT gồm nhiều bước (14-18 bước). Muốn KTCT tốt cần kiến thức đầy đủvề hóa, lý, công nghệ sản xuất; trong khi đó muốn KTMT tốt cần kiến thức cơ bản về khoa học môi trường, quản lý môi trường và pháp lý.
Kiểm toán môi trường với đánh giá tác động môi trường (ĐTM), là dự báo các tác động của dự án, đề xuất các biện pháp giảm thiểu tác động xấu, chương trình quản lý môi trường trước khi triển khai dự án còn KTMT không dự báo mà đánh giá thực tế các vấn đề về quản lý môi trường và các vấn đề tuân thủ yêu cầu BVMT trong giai đoạn hoạt động của cơ sở.
Kiểm toán môi trường với quan trắc môi trường (QTMT), khác với QTMT,KTMT không phải là đo đạc, phân tích các thành phần môi trường theo các thông số được thiết kế, tần suất, vị trí đã được thiết kế mà chú trọng về đánh giá các vấn đề môi trường của cơ sở qua quan sát thực địa, xem xét tài liệu về quan trắc của cơ sở và tham vấn. Việc đo đạc, phân tích môi trường chỉ thực hiện khi có vấn đề phát sinh trong quá trình kiểm toán. Thí dụ trong trường hợp chủ cơ sở không chấp nhận kết luận của KTMT cho rằng cơ sở không tuân thủ về QCVN, gây ô nhiễm môi trường: khi đó có thể thu mẫu, phân tích ô nhiễm để giải quyết bất đồng…).
Kiểm toán môi trường với giám sát hậu thẩm ĐTM, theo các quy định quốc tế và nhiều quốc gia tiên tiến giám sát hậu thẩm ĐTM bao gồm nhiều nội dung: kiểm tra, đánh giá mức độ dự án tuân thủ các yêu cầu về giảm thiểu tác động xấu đến môi trường vật lý, sinh học, xã hội. Như vậy, KTMT (Kiểm toán sự tuân thủ) tương tự như giám sát hậu thẩm ĐTM hoặc giám sát môi trường độc lập trong quá trình thực hiện dự án.
Lợi ích khi thực hiện kiểm toán môi trường
Theo ThS. Trần Hàn Việt - Viện Khoa học Môi trường, biển và hải đảo, thực hiện KTMT mang lại những lợi ích cho cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ như: “Giúp cơ sở phát hiện ra những vấn đề rủi ro liên quan tới sử dụng năng lượng, hóa chất, nguyên vật liệu, phế liệu, từ đó tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên nhiên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất; Giúp các cơ sở tính toán, kiểm tra, quản lý được thành phần và khối lượng chất thải phát sinh, từ đó giúp các cơ sở giảm chi phí cho việc xử lý chất thải, xử lý, khắc phục ô nhiễm; Giúp các cơ sở rà soát, cải thiện việc tuân thủ các quy định pháp luật về BVMT, góp hỗ trợ các cơ sở thực hiện đầy đủ có trách nhiệm đối với môi trường và trách nhiệm đối với xã hội”.
Bên cạnh đó, KTMT góp phần giảm thiểu rủi ro, hỗ trợ cơ sở đánh giá việc tuân thủ chính sách, pháp luật về môi trường, từ đó tránh rủi ro bị truy tố và phạt tiền do vi phạm các quy định, chính sách pháp luật về BVMT. Đặc biệt, các cơ sở có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Khuyến khích cải tiến liên tục, phát hiện cả điểm mạnh và điểm yếu trong hệ thống quản lý môi trường và vận hành khác liên quan đến môi trường của một cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ một cách thường xuyên. Do đó, nó khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cải tiến liên tục hệ thống quản lý môi trường. Nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân viên về trách nhiệm và chính sách môi trường. KTMT thể hiện cam kết của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đối với việc BVMT của cán bộ, nhân viên. KTMT nâng cao mức độ thông tin để sử dụng trong các tình huống ứng phó khẩn cấp. KTMT cũng góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, nhân viên về các chính sách, cam kết về BVMT.
Mặc dù, kiểm toán môi trường tại Việt Nam đã được quan tâm cách đây hơn một thập kỷ, song hiện nay vẫn bị đánh giá là lĩnh vực đi sau so với nhiều nước trong khu vực và quốc tế.
Thông qua việc triển khai công tác KTMT, Chính phủ sẽ thấy được mức độ tuân thủ các chế độ, chính sách hiện hành về quản lý và bảo vệ môi trường của đơn vị được kiểm toán, phát hiện được những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, như tồn tại trong việc lập, phân bổ và giao dự toán; những tồn tại trong việc chấp hành chế độ thu, chi, quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường; và tồn tại trong việc thực hiện kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, KTMT cũng chỉ ra những bất cập của các văn bản pháp luật liên quan đến việc quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường. Trên cơ sở những tồn tại, bất cập đã phát hiện được, kiểm toán viên sẽ đưa ra kiến nghị cụ thể đối với các đơn vị được kiểm toán và kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Chính phủ và Quốc hội.
Nguồn tin: tainguyenvamoitruong.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn